Tăng trưởng vượt bậc nhờ hậu thuẫn ngân hàng mẹ và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
- Được hậu thuẫn bởi ngân hàng tư nhân lớn nhất về tổng tài sản tại quý 2/2025, CTCP Chứng khoán VPBank (VPBankS) nhanh chóng vươn lên trở thành một trong bốn công ty chứng khoán hàng đầu về vốn chủ sở hữu tính đến quý 2/2025. Với chiến lược tăng trưởng dựa trên công nghệ và đẩy mạnh mảng ngân hàng đầu tư, công ty đã có kết quả 6 tháng đầu năm 2025 (6T 2025) khả quan với doanh thu 1.894 tỷ đồng (+54% YoY) và LNTT đạt 900 tỷ đồng (+80% YoY).
- Ban lãnh đạo đặt mục tiêu LNTT năm 2025 là 4.450 tỷ đồng (+265% YoY). Ban lãnh đạo ước tính KQKD 9T 2025 đã hoàn thành khoảng 70% mục tiêu cả năm và đang trên đà hoàn thành kế hoạch đã đặt ra. Bên cạnh đó, công ty cũng đưa ra kế hoạch doanh thu và lợi nhuận tăng trưởng kép (CAGR) ở mức 32% trong giai đoạn 2025-2030.
- VPBankS đặt mục tiêu tiến hành IPO vào quý 3/2025-quý 2/2026, chào bán 25% cổ phiếu đang lưu hành (375 triệu cổ phiếu) với giá chào bán là 33.900 đồng/cổ phiếu.
Thị trường vốn Việt Nam đang bước vào một giai đoạn bứt phá. Tăng trưởng GDP mạnh mẽ, các chính sách ủng hộ tăng trưởng và cải cách cơ cấu đang thúc đẩy một chu kỳ mở rộng bền vững. Với VN-Index trong một chu kỳ tăng giá dài hạn mới và hoạt động IPO đang được đẩy mạnh, việc nâng hạng lên Thị trường Mới nổi theo phân loại của FTSE Russell được dự kiến có thể thu hút 5-6 tỷ USD vốn nước ngoài (ước tính của chúng tôi). Tuy nhiên, tỷ lệ vốn hóa thị trường trên GDP của Việt Nam vẫn còn thấp hơn nhiều so với các nước cùng khu vực. Ngoài ra, dư địa tăng trưởng cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp là rất lớn với mục tiêu của Chính phủ là đạt 25% GDP vào năm 2030 (so với 11% hiện tại). Khi đầu tư cơ sở hạ tầng định hình nền kinh tế và các cải cách quy định thúc đẩy nhu cầu huy động vốn của khu vực tư nhân, các công ty chứng khoán (CTCK) có vị thế tốt dễ hưởng lợi.
Được hậu thuẫn bởi ngân hàng và tập trung vào việc thực thi, VPBankS có vị thế tốt để mở rộng quy mô. Được hỗ trợ bởi sức mạnh vốn của VPB, quan hệ đối tác chiến lược với SMBC, hệ sinh thái khách hàng và cơ sở hạ tầng dùng chung, công ty đang tăng tốc tăng trưởng trên các phân khúc cốt lõi. Với mục tiêu LNTT năm 2030 đạt tỷ đồng (ROE ) và mục tiêu thị phần hai con số trên các mảng môi giới, phái sinh, cho vay ký quỹ và thị trường vốn nợ (DCM), VPBankS đang thực thi một chiến lược tăng trưởng toàn diện—tận dụng AI, blockchain, tích hợp WealthTech và các quan hệ đối tác toàn cầu để mở rộng mức độ phủ sóng của công ty trong thị trường vốn, quản lý tài sản và đầu tư tự doanh.
Kể từ năm 2024, tăng trưởng của VPBankS đã được đẩy nhanh dưới sự lãnh đạo của đội ngũ ban lãnh đạo mới, những người đã thúc đẩy việc mở rộng sang thị trường vốn cổ phần (ECM) và đầu tư tự doanh, đồng thời củng cố các mảng kinh doanh cốt lõi như cho vay ký quỹ và DCM. Đội ngũ điều hành giàu kinh nghiệm kết hợp chuyên môn tài chính, công nghệ và vận hành từ nhiều công ty chứng khoán có uy tín để thực thi kế hoạch tăng trưởng tham vọng giai đoạn 2026–2030 của VPBankS.
VPBankS mang lại tiềm năng tăng giá hấp dẫn, được hỗ trợ bởi triển vọng tăng trưởng mạnh mẽ, lợi thế dẫn đầu từ ngân hàng, cùng tiềm năng mở rộng sang quản lý tài sản và các lĩnh vực mới như tiền mã hóa và hàng hóa. Dựa trên kế hoạch kinh doanh của công ty, giá IPO tương ứng với P/B trước phát hành năm 2025 là lần ( lần sau phát hành) và P/E trước phát hành năm là lần, so với trung vị P/B dự phóng năm là lần và P/E dự phóng năm là lần của nhóm công ty cùng ngành tính đến ngày .
Tổng quan Ngành Chứng khoán
Nhiều động lực kinh tế vĩ mô dự kiến thúc đẩy tăng trưởng mạnh mẽ và bền vững cho thị trường vốn Việt Nam
Thị trường tài chính của Việt Nam đã bước vào một giai đoạn mở rộng tăng tốc mới trong năm 2025, được củng cố bởi nhiều động lực cả trong ngắn hạn lẫn trung và dài hạn. Những động lực này bao gồm chương trình nghị sự ủng hộ tăng trưởng từ Chính phủ, các chính sách tiền tệ nới lỏng, việc mở rộng chính sách tài khóa nhằm mục tiêu kích thích tăng trưởng kinh tế, các cải cách cơ cấu để thúc đẩy hiệu quả của chính phủ, tăng cường ứng dụng công nghệ, tạo điều kiện cho khu vực tư nhân phát triển, và các sáng kiến phát triển thị trường tài chính. Trong bối cảnh kinh tế vĩ mô thuận lợi này, ngành chứng khoán nổi bật là một trong những ngành có vị thế tốt nhất để hưởng lợi từ sự mở rộng dài hạn của các thị trường tài chính Việt Nam.
Trong 6T 2025, tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt YoY, mức cao nhất trong 6 tháng đầu năm kể từ năm . Vào ngày , Chính phủ đã ban hành Nghị quyết , đặt ra các mục tiêu tăng trưởng, nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm để đảm bảo tăng trưởng GDP năm sẽ đạt –. Điều này sẽ tạo động lực và một nền tảng vững chắc để Việt Nam đạt được mức tăng trưởng 2 chữ số trong giai đoạn –.

Về chính sách tiền tệ, NHNN được kỳ vọng sẽ duy trì lãi suất điều hành ở mức thấp để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Áp lực tỷ giá USD/VND hiện tại là một thách thức đối với quan điểm nới lỏng của NHNN, nhưng chúng tôi tin rằng việc FED tiếp tục cắt giảm lãi suất sẽ tiếp tục giảm bớt áp lực tỷ giá cuối năm và cho phép NHNN giữ vững định hướng này.
Về mặt tài khóa, vào tháng 2, Chính phủ đã nâng ngân sách đầu tư công năm thêm lên nghìn tỷ đồng, tăng mạnh YoY. Giải ngân trong đã tăng YoY lên nghìn tỷ đồng, hoàn thành kế hoạch cả năm (so với mức trung bình trong cùng kỳ năm qua). Vào ngày , Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Công điện , yêu cầu các bộ, ngành và địa phương đẩy nhanh việc thực hiện với mục tiêu đạt giải ngân trong năm nay. Theo ước tính nội bộ của chúng tôi, tỷ lệ nợ công trên GDP năm sẽ đạt –, cho thấy dư địa lớn cho việc tiếp tục kích thích tài khóa trong trung hạn.

Bên cạnh các chính sách hỗ trợ tài khóa và tiền tệ, Việt Nam đã đạt được những bước tiến lớn trong việc tái cấu trúc hệ thống chính quyền, giảm thiểu tình trạng quan liêu và hợp lý hóa các thủ tục hành chính. Những nỗ lực này sẽ hỗ trợ tiết kiệm ngân sách chi phí, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, phân bổ vốn hiệu quả hơn, và thúc đẩy phát triển vùng.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành hai Nghị quyết lớn trong năm qua, cụ thể là Nghị quyết (ngày ) và Nghị quyết (ngày ), trong đó nêu chi tiết các chỉ đạo chiến lược nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mạnh hơn.
Nghị quyết tập trung vào các đột phá trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Trong khi đó, Nghị quyết tập trung vào việc tạo điều kiện cho khu vực tư nhân phát triển, đánh dấu một sự thay đổi chính sách lớn khi chính thức công nhận khu vực tư nhân là một động lực tăng trưởng quan trọng của nền kinh tế. Theo Nghị quyết này, Việt Nam đặt mục tiêu có triệu doanh nghiệp, doanh nghiệp lớn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu và khu vực tư nhân đóng góp – GDP vào năm .

Cùng với sự tăng tốc của nền kinh tế, thu nhập bình quân của người dân Việt Nam đang tăng trưởng nhanh chóng. Bộ Tài chính đã đặt ra mục tiêu đầy tham vọng là GDP bình quân đầu người sẽ đạt USD vào năm , đưa Việt Nam vào nhóm quốc gia có thu nhập trung bình cao theo phân loại của Ngân hàng Thế giới. Khi người dân Việt Nam ngày càng giàu có hơn, nhu cầu đối với các sản phẩm đầu tư như cổ phiếu và trái phiếu được kỳ vọng sẽ tăng mạnh trong những năm tới, tạo ra một động lực dài hạn cho sự phát triển của thị trường tài chính Việt Nam. Theo Quyết định số năm , Chính phủ đã đặt mục tiêu cho thị trường cổ phiếu/thị trường trái phiếu đạt GDP vào năm , tăng đáng kể so với mức hiện tại là .

Thị trường vốn cổ phần
VN-Index đã bước vào một chu kỳ tăng giá dài hạn mới trong năm 2025. Khi so sánh năm 2025 với các chu kỳ tăng giá trước đây như giai đoạn – và –, có thể thấy rõ ràng giai đoạn hiện tại mang những đặc điểm riêng biệt, cho thấy thị trường đang bước vào một kỷ nguyên tăng trưởng mạnh mẽ mới. Những đặc điểm này bao gồm: các điều kiện tiền tệ nới lỏng kết hợp với chính sách tài khóa mở rộng, tương tự như môi trường kích thích kinh tế của giai đoạn –; triển vọng về dòng vốn nước ngoài đáng kể được hỗ trợ bởi việc Việt Nam được dự kiến nâng hạng lên thị trường mới nổi theo phân loại của FTSE cùng như một loạt các đợt IPO tiềm năng, gợi nhớ đến hoạt động huy động vốn sôi động và sự mở rộng của thị trường trong giai đoạn –.
Ngoài ra, Chính phủ đang theo đuổi một chương trình nghị sự tăng trưởng thậm chí còn tham vọng hơn so với các chu kỳ trước—nhấn mạnh vào đầu tư cơ sở hạ tầng, củng cố thị trường vốn và cải cách thể chế. Sự kết hợp chính sách này được kỳ vọng sẽ dẫn thúc đẩy tăng trưởng lợi nhuận của doanh nghiệp, trong khi việc cải thiện các tiêu chuẩn và tính minh bạch của thị trường sẽ nâng cao niềm tin của nhà đầu tư. Theo đó, những động lực này không chỉ hỗ trợ một mức định giá hấp dẫn trong tương lai mà còn cho thấy năm đánh dấu sự khởi đầu của một giai đoạn tăng trưởng dài hạn, bền vững hơn, thay vì một đợt tăng giá ngắn hạn.

Quá trình nâng hạng thị trường theo FTSE sắp tới sẽ thu hút một lượng đáng kể dòng vốn nước ngoài. Trong năm qua, Chính phủ đã thể hiện cam kết mạnh mẽ trong việc thúc đẩy thị trường chứng khoán hướng tới Thị Trường Mới nổi theo phân loại của MSCI và FTSE, triển khai một loạt các cải cách quy định và sáng kiến chính sách, tạo thành nền tảng cốt lõi cho quá trình nâng hạng thị trường của Việt Nam.
Bắt đầu với Thông tư , loại bỏ yêu cầu ký quỹ trước giao dịch () đối với nhà đầu tư nước ngoài, thiết lập các nguyên tắc xử lý giao dịch thất bại, và quy định bắt buộc công bố thông tin bằng tiếng Anh. Quy định này là một cải cách nền tảng, trực tiếp giải quyết các trở ngại chính để thị trường chứng khoán Việt Nam được nâng hạng lên Thị Trường Mới nổi trong một thời gian dài. Kể từ khi được áp dụng, hơn lệnh mua của nhà đầu tư nước ngoài đã được thực hiện thông qua các dịch vụ không yêu cầu ký quỹ trước giao dịch (), trong khi các công ty chứng khoán Việt Nam đã xử lý thành công trường hợp giao dịch thất bại từ nhà đầu tư nước ngoài, nhấn mạnh hệ thống đang vận hành tốt trên thực tế.
Chính phủ cũng đã ban hành một loạt các quy định bổ sung nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho dòng vốn nước ngoài. Bao gồm và , các thông tư này hợp lý hóa và rút ngắn các thủ tục mở tài khoản đầu tư gián tiếp và tài khoản thanh toán cho nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Ngoài ra, qui định các công ty không còn được phép đặt ra các giới hạn tỷ lệ sở hữu nước ngoài () dưới mức trần quy định. Những biện pháp này hỗ trợ rất lớn cho sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài, nâng cao sức hấp dẫn của thị trường cổ phiếu Việt Nam và củng cố tiến trình để đất nước hướng tới việc được MSCI và FTSE nâng hạng thị trường.
Với những diễn biến tích cực này, chúng tôi kỳ vọng thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ được FTSE nâng hạng lên từ tháng đến tháng . Theo ước tính của chúng tôi, Việt Nam có thể thu hút tỷ USD dòng vốn quỹ thụ động sau khi nâng hạng, cùng với – tỷ USD từ các quỹ chủ động.

Gần đây, Chính phủ đã phê duyệt một dự án toàn diện nhằm nâng hạng Việt Nam, đặt mục tiêu đáp ứng các tiêu chí của và của vào năm . Đặc biệt, sửa đổi vào đầu năm đã cho phép và () thành lập một công ty con để vận hành cơ chế đối tác bù trừ () và trong quy định mục tiêu triển khai đầy đủ muộn nhất vào cuối năm . Cải cách này rất quan trọng, vì việc thành lập là một trong những tiêu chí cốt lõi mà yêu cầu để phân loại lại thị trường.
Thị trường cổ phiếu sôi động đã thúc đẩy một làn sóng mới.
Được hỗ trợ bởi triển vọng kinh tế tích cực và các mục tiêu tăng trưởng tham vọng của Chính phủ, các doanh nghiệp ngày càng tìm kiếm vốn để mở rộng hoạt động và nắm bắt các cơ hội mới. Nhu cầu huy động vốn gia tăng này phù hợp với diễn biến tích cực của và việc Việt Nam được dự kiến nâng hạng lên theo , tạo ra một bối cảnh thuận lợi hơn cho việc phát hành cổ phiếu.
Đối với các công ty, việc nâng hạng không chỉ mở rộng khả năng tiếp cận một nguồn vốn nước ngoài lớn hơn mà còn giúp họ đạt được mức định giá cao hơn và huy động vốn hiệu quả hơn. Ngoài vốn, các mang theo chuyên môn toàn cầu, các tiêu chuẩn quản trị tiên tiến và quan hệ đối tác chiến lược – những yếu tố có thể thúc đẩy việc mở rộng kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường Việt Nam.
Ở cấp độ quản lý, đã tiếp tục hợp lý hóa quy trình và niêm yết. Theo khuôn khổ mới, và hiện có thể xem xét đồng thời các hồ sơ và niêm yết, giảm bớt các điểm nghẽn trong khâu phê duyệt. Sau khi được phê duyệt, thời gian để đưa chứng khoán vào giao dịch đã được rút ngắn từ ngày xuống chỉ còn ngày. Nhìn chung, những thay đổi này được kỳ vọng sẽ rút ngắn thời gian từ đến giao dịch từ – tháng so với thực tiễn hiện tại, cải thiện đáng kể hiệu quả của thị trường.
Với những diễn biến tích cực này của thị trường, chúng tôi dự báo một làn sóng mới của các công ty Việt Nam với tổng giá trị định giá trên tỷ . Làn sóng niêm yết này sẽ mở rộng lựa chọn đầu tư, tăng cường đa dạng ngành và giúp mở rộng thị trường cổ phiếu Việt Nam.

Việt Nam có dư địa lớn để tăng trưởng. Theo ước tính của chúng tôi, tỷ lệ vốn hóa thị trường trên GDP năm của Việt Nam là – thấp hơn so với Thái Lan () và Malaysia (). Ngay cả sau đợt tăng mạnh của kể từ tháng , tỷ lệ này cũng chỉ tăng lên khoảng . Cùng với triển vọng tăng trưởng mạnh mẽ, mục tiêu của Chính phủ là đạt tỷ lệ vốn hóa thị trường trên vào năm và một danh mục các đợt niêm yết chất lượng cao đang gia tăng, chúng tôi tin rằng thị trường cổ phiếu Việt Nam có dư địa dồi dào để tăng trưởng.

Tỷ lệ tài khoản giao dịch chứng khoán tại Việt Nam vẫn ở mức thấp. Tính đến năm 2024, tài khoản chứng khoán của Việt Nam chỉ chiếm khoảng 9% tổng dân số, cao hơn một số thị trường mới nổi như Thái Lan, Ấn Độ và Indonesia, nhưng vẫn còn kém xa so với các thị trường phát triển hơn ở châu Á. Khoảng cách đáng kể này làm nổi bật tiềm năng tăng trưởng dài hạn của cơ sở nhà đầu tư cá nhân tại Việt Nam, đặc biệt khi trình độ hiểu biết tài chính được cải thiện, các nền tảng giao dịch kỹ thuật số mở rộng và các cải cách thị trường khuyến khích sự tham gia rộng rãi hơn. Bên cạnh đó, với thu nhập hộ gia đình được dự phóng sẽ tăng trưởng với CAGR 10% trong giai đoạn 2025–2030, tài sản trên mỗi tài khoản chứng khoán dự kiến sẽ tăng song song với nhu cầu đầu tư ngày càng lớn. Xu hướng này không chỉ giúp tăng tính thanh khoản của thị trường mà còn hỗ trợ sự mở rộng bền vững của TTCK Việt Nam.

Thị trường Trái phiếu
Phát hành TPDN đã phục hồi khi cả nguồn cung từ doanh nghiệp và nhu cầu tìm kiếm lợi suất cao hơn từ nhà đầu tư đều tăng.
Sau giai đoạn biến động của năm 2022, thị trường TPDN đã đi vào quỹ đạo phục hồi dần kể từ năm 2023, với động lực tăng tốc trong năm 2025. Trong 8T2025, tổng giá trị phát hành mới đã đạt 373 nghìn tỷ đồng (+45% YoY)—một sự phục hồi mạnh mẽ được thúc đẩy bởi cả nhu cầu huy động vốn mới của doanh nghiệp và nhu cầu tìm kiếm lợi suất cao hơn của nhà đầu tư gia tăng.
Về phía doanh nghiệp, sự ổn định của ngành bất động sản và nhu cầu ngày càng tăng về vốn dài hạn để tài trợ cho việc mở rộng kinh doanh trong các điều kiện thị trường thuận lợi hơn đã khuyến khích các nhà phát hành quay trở lại thị trường trái phiếu. Về phía nhà đầu tư, lãi suất tiền gửi thấp (4,5–5% cho tiền gửi 12 tháng) đã thúc đẩy người gửi tiết kiệm tìm đến các kênh thay thế có lợi suất cao hơn. Đồng thời, những điều chỉnh gần đây về mặt quy định nhằm bảo vệ nhà đầu tư—cùng với việc nhiều doanh nghiệp đã nối lại các khoản thanh toán bị chậm trễ trong giai đoạn 2022–2023—đã giúp khôi phục niềm tin thị trường. Những yếu tố này đã cùng nhau tạo nên nền tảng cho một sự phục hồi bền vững trên thị trường TPDN Việt Nam.

Dư địa tăng trưởng lớn cho thị trường TPDN khi các công ty tìm cách đa dạng hóa nguồn vốn và giảm phụ thuộc vào vốn vay ngân hàng
Dữ liệu về nợ tư nhân trên GDP năm 2024 cho thấy mức 136% của Việt Nam cao hơn các nước cùng khu vực Đông Nam Á, chỉ thấp hơn các thị trường phát triển như Trung Quốc, Nhật Bản và Hồng Kông. Tuy nhiên, tỷ lệ dư nợ TPDN trên GDP của Việt Nam chỉ ở mức 11% vào năm 2024, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực như Malaysia (53%), Singapore (27%) và Thái Lan (24%). Khoảng cách đáng kể này cho thấy tiềm năng lớn để thị trường TPDN của Việt Nam mở rộng. Hơn nữa, phần lớn nguồn vốn huy động từ ngân hàng vẫn là ngắn hạn và các ngân hàng bị giới hạn bởi quy định về tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn phải duy trì dưới 30% tổng vốn. Những hạn chế này giới hạn khả năng của các ngân hàng trong việc tài trợ cho các dự án dài hạn của doanh nghiệp, do đó khuyến khích việc phụ thuộc nhiều hơn vào phát hành trái phiếu để đáp ứng nhu cầu vốn trung hạn. Đến năm 2030, Chính phủ đặt mục tiêu thị trường TPDN sẽ mở rộng lên 25% GDP.

Các tổ chức tài chính và doanh nghiệp bất động sản là động lực chính của thị trường TPDN.
Theo dữ liệu của VIS Rating, trái phiếu ngân hàng và trái phiếu bất động sản chiếm khoảng 75% tổng dư nợ TPDN. Chúng tôi kỳ vọng những ngành này sẽ tiếp tục thúc đẩy hoạt động phát hành và duy trì một phần đáng kể thị phần trong thời gian tới.
Đối với các doanh nghiệp bất động sản, sự phục hồi hiện tại của ngành—được hỗ trợ bởi các khoản đầu tư vào cơ sở hạ tầng do Chính phủ phân bổ và quy trình phê duyệt pháp lý nhanh hơn—sẽ tạo ra nhu cầu mạnh mẽ đối với các đợt phát hành trái phiếu quy mô lớn, dài hạn để tài trợ cho các dự án mới. Trong khi đó, các ngân hàng cũng sẽ đóng một vai trò then chốt, vì nhu cầu về nguồn vốn trung và dài hạn để giải ngân các khoản vay cho các dự án lớn và duy trì tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ sẽ khuyến khích họ phát hành nhiều TPDN dài hạn hơn.

Khuôn khổ pháp lý được định hình lại hỗ trợ hoạt động kinh doanh trái phiếu
Kể từ đợt chấn chỉnh thị trường TPDN vào năm 2022, Chính phủ đã ban hành một loạt các quy định mới nhằm hướng thị trường này tới sự phát triển bền vững và dài hạn. Khuôn khổ pháp lý đã dần thắt chặt các mục đích phát hành, điều kiện nhà đầu tư và quy trình chào bán theo Nghị định 65/2022/NĐ-CP; mở rộng và làm rõ các quy định bảo vệ nhà đầu tư và quyền giám sát thông qua Luật số 56/2024/QH15; và gần đây nhất là tăng cường các yêu cầu đối với việc chào bán ra công chúng và niêm yết trái phiếu trong Nghị định 245/2025/NĐ-CP. Nhìn chung, những biện pháp này không chỉ nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình mà còn đưa các hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam tiệm cận hơn với các tiêu chuẩn quốc tế, nhằm mục đích khôi phục niềm tin của nhà đầu tư đồng thời đảm bảo việc huy động vốn ổn định cho các doanh nghiệp. Về phía trước, nền tảng pháp lý này cung cấp cơ sở để thị trường TPDN Việt Nam phát triển với sức mạnh và tính bền vững cao hơn.

Bối cảnh cạnh tranh của ngành
Thị trường tiềm năng cho ngành chứng khoán đã tăng trưởng mạnh mẽ cùng với sự phát triển của các thị trường tài chính Việt Nam. Dựa trên phân tích của chúng tôi về 30 công ty chứng khoán (CTCK) lớn nhất tại Việt Nam theo tổng tài sản, tổng doanh thu của ngành này đã tăng hơn gấp 3 lần trong giai đoạn 2019–2024, đạt 2,7 tỷ USD vào năm 2024 (CAGR 27%). Về cơ cấu doanh thu, các CTCK tạo ra phần lớn doanh thu từ hoạt động đầu tư (43% doanh thu năm 2024) và hoạt động cho vay ký quỹ (31%). Trong khi đó, doanh thu từ dịch vụ môi giới & lưu ký (19%) và dịch vụ ngân hàng đầu tư (5%) chiếm tỷ trọng nhỏ hơn trong tổng doanh thu.

Bảng cân đối kế toán của các CTCK đã mở rộng đáng kể trong những năm gần đây khi ngành môi giới trở thành một trung gian tài chính quan trọng cho nền kinh tế bên cạnh ngành ngân hàng. Tổng tài sản của 30 CTCK lớn nhất tại Việt Nam đã tăng hơn gấp 3 lần trong giai đoạn 2019–2024, đạt 21 tỷ USD vào năm 2024 (CAGR 33%). Đầu tư và cho vay chiếm phần lớn tài sản của ngành, lần lượt là 49% và 42% (dữ liệu năm 2024). Về nguồn vốn, gần 50% nguồn vốn của ngành chứng khoán đến từ vốn chủ sở hữu của cổ đông. Phần còn lại chủ yếu đến từ các khoản vay ngắn hạn (48% tổng nguồn vốn) từ các ngân hàng thương mại, được sử dụng để tài trợ cho các hoạt động cho vay ký quỹ.

Không chỉ ghi nhận tăng trưởng doanh thu mạnh mẽ và bảng cân đối kế toán mở rộng đáng kể trong những năm gần đây, các CTCK còn đạt được tăng trưởng lợi nhuận vượt trội qua các chu kỳ thị trường. Trong giai đoạn 2019–2024, 30 CTCK lớn nhất theo tổng tài sản đã đạt CAGR tổng lợi nhuận là 28% và tổng lợi nhuận của các CTCK đã đạt 860 triệu USD vào năm 2024. Tổng ROE của các CTCK đã đạt mức cao hơn 23% trong chu kỳ tăng giá vào năm 2021.

Đầu tiên, đối với mảng cho vay ký quỹ, chúng tôi nhận thấy nhu cầu cho vay ký quỹ đã tăng mạnh nhờ hoạt động thị trường sôi động. Tính đến quý 2/2025, tổng dư nợ cho vay ký quỹ toàn ngành đạt 297 nghìn tỷ đồng (+23,0% so với đầu năm và +40,0% YoY) và tương đương 4,6% tổng vốn hóa thị trường của 2 sàn HSX và HNX (chỉ các chứng khoán trên hai sàn này đủ điều kiện để cho vay ký quỹ). Tỷ lệ này đã tăng đều đặn qua các chu kỳ thị trường từ mức chỉ 1,7% cách đây 5 năm vào quý 2/2020, cho thấy nhu cầu cho vay ký quỹ từ các bên tham gia thị trường không chỉ phụ thuộc vào diễn biến của chỉ số mà còn mang tính cơ cấu hơn.


Trong bối cảnh nhu cầu cho vay ký quỹ đang tăng mạnh, xu hướng chính của ngành mà chúng tôi đã chứng kiến trong những năm gần đây là các công ty chứng khoán được hậu thuẫn bởi ngân hàng đã giành được thị phần đáng kể từ các công ty chứng khoán độc lập. Để minh họa, tổng dư nợ cho vay ký quỹ của năm công ty chứng khoán lớn được hậu thuẫn bởi ngân hàng, bao gồm TCBS, VPBAnks, ACBS, MBS và KAFI, đã tăng với tốc độ vượt dự kiến từ chỉ hơn 700 triệu USD vào năm 2022 lên 3,2 tỷ USD vào cuối quý 2/2025, tương ứng với CAGR là 83%. Tổng thị phần cho vay của nhóm CTCK này đã tăng từ 16% vào năm 2022 lên 28% vào cuối quý 2/2025.
Ngược lại, 5 CTCK độc lập lớn, bao gồm SSI, HCM, VCI, VND và VPS, đã báo cáo tổng dư nợ cho vay ký quỹ là 3,2 tỷ USD vào cuối quý 2/2025, tăng với CAGR 41% so với mức 1,5 tỷ USD vào năm 2022. Tổng thị phần của nhóm CTCK này đã giảm từ 33% vào năm 2022 xuống 30% vào cuối quý 2/2025. Chúng tôi cho rằng hiệu suất vượt trội của các CTCK được hậu thuẫn bởi ngân hàng trong mảng cho vay ký quỹ là nhờ lợi thế về bảng cân đối kế toán quy mô lớn và nguồn vốn, và chúng tôi kỳ vọng xu hướng này sẽ tiếp tục trong tương lai gần.

Chúng tôi tin rằng mảng TPDN sẽ là mảng kinh doanh mà các CTCK được hậu thuẫn bởi ngân hàng sẽ chiếm ưu thế so với các CTCK độc lập. Theo quan điểm của chúng tôi, các mối quan hệ doanh nghiệp chặt chẽ, chuyên môn trong việc đánh giá rủi ro tín dụng và bảng cân đối kế toán lớn là những yếu tố cần thiết để chiếm ưu thế trong mảng này. Mặc dù một vài CTCK độc lập hàng đầu như SSI có thể cạnh tranh với các CTCK được hậu thuẫn bởi ngân hàng về quy mô, nhưng sẽ rất khó để họ cạnh tranh về mối quan hệ doanh nghiệp và năng lực đánh giá tín dụng. Trong năm 2024, hai công ty chứng khoán được hậu thuẫn bởi ngân hàng là TCBS và HDBS đã thống trị thị trường tư vấn phát hành TPDN với 65% thị phần. Khi thị trường này tiếp tục tăng trưởng về quy mô và tầm quan trọng đối với danh mục đầu tư của nhà đầu tư, chúng tôi tin rằng đây là một xu hướng khác của ngành sẽ giúp định hình những công ty dẫn đầu ngành.

Chúng tôi tin rằng hoạt động đầu tư tự doanh, đặc biệt là mảng cổ phiếu, là lĩnh vực mà một số CTCK độc lập có thể sở hữu kinh nghiệm chuyên sâu hơn so với các CTCK được hậu thuẫn bởi ngân hàng. Do thị trường cổ phiếu có mức độ biến động/rủi ro cao hơn so với thị trường trái phiếu, hầu hết các CTCK được hậu thuẫn bởi ngân hàng có xu hướng khá thận trọng trong việc phân bổ tài sản cho các khoản đầu tư tự doanh. Trong khi đó, nhiều CTCK độc lập nhìn chung chủ động hơn trong việc tìm kiếm các cơ hội đầu tư với tỷ suất sinh lợi tốt hơn so với cho vay ký quỹ đơn thuần. Với triển vọng thuận lợi của nền kinh tế và thị trường, chúng tôi tin rằng các CTCK có chuyên môn đầu tư sâu rộng có thể cải thiện lợi nhuận của họ thông qua việc tham gia vào các giao dịch theo từng thương vụ trên cả thị trường nợ và vốn chủ sở hữu.

Tổng hợp các xu hướng chính này lại, những doanh nghiệp đầu ngành sẽ cần phải có sức mạnh về khả năng tiếp cận khách hàng, chuyên môn đầu tư và vị thế vốn. Theo quan sát của chúng tôi, hiện chỉ có một số ít CTCK sở hữu/có thể phát triển những lợi thế cạnh tranh này, và chúng tôi tin rằng những công ty đó có vị thế tốt để trở thành những người dẫn đầu thị trường trong những năm tới.

Ứng dụng AI đã trở thành công cụ quan trọng để thúc đẩy hiệu quả và sự gắn kết của khách hàng
Gần đây, việc ứng dụng AI trong hoạt động và dịch vụ đã trở thành một xu hướng toàn cầu, và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Theo quan sát của chúng tôi, các CTCK lớn và có vốn hóa tốt đang tích cực đón nhận sự thay đổi này, xem AI như một công cụ chiến lược để nâng cao năng lực cạnh tranh. Các công ty như TCBS, Vietcap và VPBankS đã phát triển các hệ sinh thái AI toàn diện vượt xa các chatbot đơn giản, bao gồm các tính năng như phân tích cổ phiếu tự động, tổng hợp tin tức bằng AI và dịch thuật đa ngôn ngữ để phục vụ nhu cầu đa dạng của khách hàng. Các công ty môi giới khác như SSI, ACBS và DNSE cũng đã triển khai các trợ lý chatbot tích hợp AI có khả năng cung cấp hỗ trợ tức thời.
Trong chu kỳ trước, các CTCK có đội ngũ môi giới là con người lớn và các chính sách phí hoa hồng hấp dẫn đã có thể mở rộng thị phần. Tuy nhiên, trong chu kỳ hiện tại, chúng tôi tin rằng những công ty có khả năng tận dụng công cụ AI sẽ giành được lợi thế. Bằng cách cung cấp thông tin kịp thời, cá nhân hóa và dễ tiếp cận, các CTCK được hỗ trợ bởi AI có thể tăng cường sự gắn kết của khách hàng và mở rộng thị phần hiệu quả hơn, với chi phí thấp hơn đáng kể. Với bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt, chúng tôi kỳ vọng các công ty môi giới sẽ đẩy nhanh hơn nữa việc đầu tư vào các giải pháp AI, đặc biệt là những công ty có nền tảng vốn vững chắc và được hậu thuẫn từ ngân hàng mẹ.
Theo ban lãnh đạo, VPBankS tạo ra sự khác biệt cho nền tảng AI của mình bằng cách khả năng nâng cao, đa tầng, được cung cấp bởi 25 công cụ AI tích hợp. Là một đơn vị tiên phong trong lĩnh vực Agentic AI, hệ thống này không chỉ dừng lại ở các mô hình dựa trên quy tắc mà còn thu thập và phân tích dữ liệu, tạo báo cáo đánh giá, điều chỉnh các giả định để kiểm tra kết quả và xử lý các kịch bản bất thường, khiến nó trở nên linh hoạt và có khả năng thích ứng cao.
Tổng quan Công ty
Hồ sơ và lịch sử công ty
Chứng khoán VPBank (VPBankS), trước đây là Chứng khoán ASC, đã được VPB mua lại và đổi thương hiệu vào đầu năm 2022 như một phần trong chiến lược mở rộng sang thị trường vốn. Là một công ty con của một trong những ngân hàng thương mại tư nhân hàng đầu Việt Nam, VPBankS đặt mục tiêu trở thành một công ty lớn trong ngành chứng khoán bằng cách tận dụng nền tảng tài chính vững mạnh và tệp khách hàng rộng lớn của VPB. Công ty cung cấp một bộ dịch vụ toàn diện bao gồm môi giới, ngân hàng đầu tư và tư vấn quản lý tài sản, phù hợp với tầm nhìn của VPB về việc xây dựng một hệ sinh thái tài chính tích hợp. Kể từ khi được mua lại, VPBankS đã phát triển nhanh chóng, nâng vốn điều lệ từ chỉ 269 tỷ đồng lên 15 nghìn tỷ đồng, trở thành một trong bốn công ty chứng khoán lớn nhất tại Việt Nam.
Kể từ khi được đổi thương hiệu và tái cấp vốn vào năm 2022, VPBankS đã cho thấy đã tăng trưởng mạnh mẽ, được củng cố bởi nền tảng vốn dồi dào và việc tận dụng hiệu quả các nguồn lực rộng khắp cũng như hệ sinh thái khách hàng của ngân hàng mẹ. Nền tảng này đã giúp công ty nhanh chóng mở rộng thị phần trên các phân khúc dịch vụ.

Đã tăng trưởng trở nên hấp dẫn hơn về mặt cơ cấu từ năm 2024 trở đi, khi bổ nhiệm đội ngũ lãnh đạo mới bao gồm các chuyên gia dày dặn kinh nghiệm trong ngành, với chuyên môn sâu rộng về thị trường vốn và thực thi chiến lược. Đồng thời, bối cảnh kinh tế vĩ mô rộng lớn hơn đã ngày càng trở nên hỗ trợ. Chính sách kinh tế của Việt Nam đã chuyển sang kích thích tăng trưởng, bao gồm các chính sách thúc đẩy thị trường vốn và mở rộng khả năng tiếp cận nguồn vốn thông qua các kênh phi ngân hàng để hỗ trợ các mục tiêu tăng trưởng GDP cao hơn. Những động lực này, kết hợp với năng lực tổ chức được cải thiện, sự tập trung chiến lược và sức mạnh tổng hợp từ hệ sinh thái của VPBankS, đã giúp công ty có vị thế tốt để tận dụng hoạt động thị trường gia tăng và nhu cầu ngày càng tăng của nhà đầu tư.
Cơ cấu doanh thu ngày càng đa dạng, phản ánh mô hình kinh doanh năng động và phạm vi tiếp cận phân khúc đang mở rộng của VPBankS. Kể từ khi ra mắt vào năm 2022, công ty đã nhanh chóng mở rộng quy mô mảng cho vay ký quỹ, với dư nợ đạt 17,8 nghìn tỷ đồng vào quý 2/2025, đóng góp đáng kể vào cơ cấu doanh thu. Tận dụng chi phí vốn thấp và hệ sinh thái sẵn có, VPBankS đã mạnh mẽ tăng trưởng thị phần trong khi vẫn duy trì biên lợi nhuận lành mạnh. Đồng thời, công ty đã tận dụng nguồn vốn thặng dư và sức mạnh của Tập đoàn trong thị trường vốn nợ (DCM) để giành được vị thế hàng đầu trong mảng bảo lãnh phát hành trái phiếu trong bối cảnh thị trường trái phiếu doanh nghiệp đang phục hồi—thúc đẩy cả phí bảo lãnh phát hành và thu nhập từ hoạt động tự doanh. Định hướng năm 2025 được điều chỉnh vào tháng 9 báo hiệu sự đóng góp mạnh mẽ được kỳ vọng từ hoạt động tự doanh trái phiếu và tư vấn ngân hàng đầu tư. Với các điều kiện thị trường thuận lợi, động lực tăng trưởng vững chắc và việc mở rộng chiến lược sang mảng ECM, quản lý tài sản và tài sản số—cùng với việc tăng cường ứng dụng công nghệ—chúng tôi tin rằng VPBankS mang đến một câu chuyện tăng trưởng cổ phiếu hấp dẫn.


Lợi thế cạnh tranh từ việc được hậu thuẫn bởi một ngân hàng thương mại lớn
VPB (thành lập năm 1993) là một trong những ngân hàng tư nhân hàng đầu Việt Nam, với trọng tâm mạnh mẽ vào phân khúc khách hàng cá nhân và doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME). Tính đến quý 2/2025, VPB có vốn điều lệ lớn nhất trong số các ngân hàng tư nhân Việt Nam, đạt hơn 79,3 nghìn tỷ đồng, được củng cố đáng kể nhờ khoản đầu tư chiến lược 1,5 tỷ USD từ Sumitomo Mitsui Banking Corporation vào năm 2023, sở hữu 15% cổ phần. Tổng tài sản hợp nhất của ngân hàng đã vượt 1.104 nghìn tỷ đồng (42 tỷ USD), và ngân hàng phục vụ hơn 30 triệu khách hàng.
VPBankS có vị thế tốt để tận dụng sự hỗ trợ mạnh mẽ từ ngân hàng mẹ và đóng vai trò ngày càng mang tính chiến lược trong hệ sinh thái tài chính của VPB. Được hỗ trợ bởi nền tảng vốn vững mạnh của VPB và sự hiện diện của một đối tác chiến lược dài hạn, tập đoàn đã đưa ra một chiến lược tăng trưởng đầy tham vọng, bao gồm các khoản đầu tư đáng kể vào các công ty con để mở rộng danh mục sản phẩm và củng cố sức mạnh tổng hợp nội bộ. Theo định hướng chiến lược này, dựa trên kế hoạch kinh doanh của công ty và các dự phóng hiện tại của chúng tôi cho VPB, chúng tôi ước tính lợi nhuận của VPBankS tương đương khoảng 22%–27% LNTT hợp nhất của VPB trong giai đoạn 2025–2030, nhấn mạnh tầm quan trọng ngày càng tăng của công ty trong cơ cấu lợi nhuận của tập đoàn. Với sự hỗ trợ vận hành mạnh mẽ và khả năng tiếp cận các nguồn lực chung của tập đoàn, VPBankS được kỳ vọng sẽ tối ưu hóa hơn nữa hoạt động của công ty và đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh doanh. Trong trung hạn, sự hậu thuẫn bền vững từ ngân hàng mẹ có khả năng vẫn sẽ là một lợi thế cạnh tranh then chốt, giúp VPBankS vượt trội so với các đối thủ trong bối cảnh dịch vụ tài chính đang phát triển nhanh chóng.

+ Tiếp cận nguồn vốn cạnh tranh và đa dạng
Là một công ty con của VPBank, VPBankS được hưởng lợi từ nguồn vốn chi phí thấp—hỗ trợ cho các mảng cho vay ký quỹ, phát hành trái phiếu và tự doanh. Liên minh chiến lược với SMBC càng tăng cường khả năng tiếp cận vốn quốc tế, chuyên môn về tài chính và các cơ sở tín dụng dài hạn.
+ Sức mạnh tổng hợp từ hệ sinh thái và tận dụng tệp khách hàng
Tệp khách hàng cá nhân và doanh nghiệp rộng lớn của ngân hàng mẹ cho phép VPBankS bán chéo các dịch vụ đầu tư một cách hiệu quả. Khách hàng tổ chức và SME mang đến những cơ hội lớn cho các dịch vụ tư vấn nợ, phát hành cổ phiếu và các giao dịch lô lớn.
+ Cơ sở hạ tầng dùng chung: Công nghệ, Dữ liệu và Tiếp thị
VPBankS tận dụng các nền tảng kỹ thuật số, AI và năng lực dữ liệu lớn của tập đoàn để nâng cao trải nghiệm khách hàng và khả năng mở rộng vận hành. Nguồn lực truyền thông và tiếp thị dùng chung hỗ trợ thu hút và gắn kết khách hàng.
+ Nguồn nhân lực và hỗ trợ vận hành
Ngân hàng mẹ cung cấp cả chuyên môn tư vấn và nhân sự giàu kinh nghiệm cho VPBankS, giúp giảm chi phí ban đầu và đẩy nhanh quá trình phát triển tổ chức trong các lĩnh vực chính như quản trị, tuân thủ và chiến lược.
+ Khuôn khổ quản lý rủi ro và kiểm soát
Việc áp dụng các hệ thống của ngân hàng mẹ về quản lý rủi ro, kiểm toán nội bộ và tuân thủ đảm bảo các biện pháp kiểm soát nội bộ chặt chẽ và phù hợp với các tiêu chuẩn quản lý—những yếu tố quan trọng cho sự tăng trưởng bền vững.
+ Hiệu quả chi phí thông qua các dịch vụ dùng chung
Mô hình dịch vụ dùng chung ở cấp tập đoàn (tài chính, quản lý tài sản & nợ (ALM), mua sắm) giúp tăng hiệu quả hoạt động, cho phép VPBankS tập trung vào tăng trưởng kinh doanh cốt lõi trong khi vẫn được hưởng lợi từ các chức năng hỗ trợ tập trung.
VPBankS duy trì sự độc lập nhất định dù tận dụng nguồn lực từ ngân hàng mẹ. VPBankS hoạt động theo một mô hình lai cân bằng giữa sự độc lập về vận hành với sự hỗ trợ toàn diện từ ngân hàng mẹ. Trong khi tuân thủ các yêu cầu pháp lý đối với công ty con của các tổ chức tín dụng, VPBankS vẫn duy trì quyền tự chủ về chiến lược và hoạt động, cho phép công ty độc lập thực hiện các kế hoạch kinh doanh và tối ưu hóa hiệu suất. Đồng thời, công ty được hưởng lợi từ các nguồn lực dùng chung của tập đoàn, bao gồm nâng cao sức mạnh đàm phán với các nhà cung cấp dịch vụ bên ngoài và tối ưu hóa việc phân bổ nguồn lực trên toàn tập đoàn. Mô hình này đảm bảo cả tính minh bạch và hiệu quả, giúp VPBankS hoạt động hiệu quả trong khi vẫn phù hợp với các mục tiêu chiến lược rộng hơn của tập đoàn.
Cơ cấu tổ chức và đội ngũ lãnh đạo
Cơ cấu tổ chức
Tỷ lệ FOL hiện tại của VPBankS là 100%.


Cơ cấu lực lượng lao động của công ty phù hợp chặt chẽ với chiến lược tăng trưởng tập trung vào công nghệ, tạo sự cân bằng giữa việc mở rộng kinh doanh và hiệu quả vận hành. Với 52% nhân sự ở các vị trí tạo doanh thu, công ty duy trì sự tập trung mạnh mẽ vào phát triển kinh doanh cốt lõi. Trong khi đó, 47% nhân sự thuộc các chức năng vận hành và hỗ trợ, trong đó 66% trong đó là nhân sự CNTT và 16% dành riêng cho phát triển sản phẩm. Sự phân bổ này phản ánh rõ ràng chiến lược của công ty nhằm tận dụng AI, blockchain và phát triển nền tảng quản lý tài sản WealthTech để nâng cao các dịch vụ giao dịch, cho vay ký quỹ và quản lý danh mục đầu tư, đồng thời có kế hoạch mở rộng lĩnh vực tài sản số.
Theo các công bố của công ty, VPBankS ưu tiên sở hữu công nghệ cốt lõi để đảm bảo khả năng mở rộng, kiểm soát và năng lực cạnh tranh dài hạn. Cơ sở hạ tầng của công ty hỗ trợ giao dịch độ trễ thấp, thông lượng cao, với AI và tự động hóa giúp nâng cao hiệu quả khắp hệ thống, giảm sát rủi ro và dịch vụ khách hàng. Được xếp hạng ở Cấp độ 3 theo khung bảo mật thông tin 5 cấp của Việt Nam, hệ thống tuân thủ ISO 27001 và các quy định an ninh mạng trong nước, với các biện pháp bảo vệ bao gồm DLP (Phòng chống thất thoát dữ liệu), mã hóa và giám sát 24/7. Trong khi hợp tác có chọn lọc với các nhà cung cấp bên ngoài, công ty tiếp tục xây dựng năng lực nội bộ. Ban lãnh đạo kỳ vọng sẽ tiếp tục đầu tư vào cơ sở hạ tầng linh hoạt, sẵn sàng cho tăng trưởng để hỗ trợ việc mở rộng và đáp ứng các nhu cầu thị trường đang phát triển.
Đội ngũ lãnh đạo
VPBankS áp dụng cơ cấu báo cáo tinh gọn và đơn giản. Công ty hoạt động dưới sự điều hành của một HĐQT độc lập, tách biệt với ngân hàng mẹ, trong khi vẫn hưởng lợi từ sự liên kết chiến lược chặt chẽ với ban lãnh đạo cấp cao của VPBank.

Đội ngũ ban lãnh đạo mạnh mẽ và giàu kinh nghiệm đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hiệu suất và thực thi kế hoạch tăng trưởng đầy tham vọng của Chứng khoán VPBank cho giai đoạn 2026-2030.
Ông Vũ Hữu Điền, Tổng Giám đốc và là nguyên Giám đốc đầu tư của Quỹ VEIL—quỹ lớn nhất và hoạt động lâu đời nhất Việt Nam tại Dragon Capital—mang đến chuyên môn sâu rộng về thị trường vốn và quản lý tài sản. Dưới sự lãnh đạo của ông, VPBankS đã mở rộng sang các lĩnh vực tăng trưởng cao như ECM, ngân hàng đầu tư và đầu tư tự doanh, đồng thời củng cố các mảng kinh doanh cốt lõi như cho vay ký quỹ và DCM. Ông gia nhập VPBankS vào tháng 7/2024 với chức danh Chủ tịch và đã đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của công ty trong năm qua. Vào tháng 9/2025, ông đã từ nhiệm vị trí Chủ tịch nhưng vẫn là thành viên HĐQT và Tổng Giám đốc. Việc từ nhiệm này tuân thủ quy định pháp luật, không cho phép một cá nhân đồng thời giữ vị trí Chủ tịch HĐQT và Tổng Giám đốc tại một công ty đại chúng.
Bà Hồ Thuỳ Nga, người được bổ nhiệm làm Chủ tịch vào tháng 9/2025 sau khi ông Điền từ nhiệm, mang đến kinh nghiệm sâu rộng về quản lý rủi ro tín dụng từ các vị trí tại Techcombank và VietinBank Leasing. Vị trí kiêm nhiệm Giám đốc Quản lý Rủi ro Tín dụng tại ngân hàng mẹ của bà đảm bảo sự liên kết chặt chẽ với quản trị của tập đoàn và nâng cao khả năng quản lý rủi ro của VPBankS, đặc biệt trong mảng cho vay tập trung vào khách hàng cá nhân và SME.
Ông Nguyễn Lương Tân, cũng là thành viên HĐQT, đóng góp chuyên môn sâu thông qua kinh nghiệm kết hợp từ mảng phân tích và ngân hàng đầu tư. Kinh nghiệm của ông củng cố năng lực của VPBankS trong việc khởi tạo và thực hiện các nghiệp vụ tài chính doanh nghiệp phức tạp, giúp công ty có vị thế tốt hơn để phục vụ khách hàng tổ chức và nắm bắt các cơ hội thị trường.

Đội ngũ ban lãnh đạo thể hiện sự kết hợp chặt chẽ giữa chuyên môn về tài chính, công nghệ và vận hành, được điều chỉnh để hỗ trợ quỹ đạo tăng trưởng chiến lược của công ty. Với đội ngũ lãnh đạo cấp cao giàu kinh nghiệm đến từ các công ty chứng khoán uy tín như bà Ly Ly (nguyên Giám đốc Nhân sự và COO tại SSI), ông Steve Yam (nguyên Giám đốc Công nghệ Thông tin tại SSI) và ông Tân (nguyên Giám đốc Đầu tư tại SHS), mỗi trụ cột kinh doanh của VPBankS đều được dẫn dắt bởi những chuyên gia đầu ngành, đảm bảo khả năng thực thi hiệu quả lộ trình phát triển đầy tham vọng của công ty.
Điểm nhấn & triển vọng các mảng kinh doanh
Mảng môi giới


VPBankS ghi nhận mức tăng trưởng đáng kể về cơ sở khách hàng môi giới, đạt 660.000 tài khoản vào quý 2/2025—tăng gấp 15,7 lần so với năm 2022. Xu hướng tăng trưởng theo cấp số nhân này được kỳ vọng sẽ tiếp tục, với dự phóng số lượng tài khoản giao dịch sẽ vượt 1,8 triệu vào năm 2027. Giá trị tài sản ròng (NAV) và giá trị giao dịch của nhà đầu tư cũng tăng đáng kể, phản ánh niềm tin và sự gắn kết ngày càng tăng của nhà đầu tư đối với công ty.

Tăng tỷ lệ danh mục của khách hàng và tăng cường dịch vụ gia tăng để thúc đẩy doanh thu môi giới trong bối cảnh môi trường cạnh tranh miễn phí giao dịch đang gay gắt: Hiện tại, phí giao dịch cổ phiếu tại Việt Nam dao động từ 0,10% đến 0,15%, trong khi phí trái phiếu thậm chí còn thấp hơn, ở mức 0,01% đến 0,015%. Tuy nhiên, giao dịch trực tuyến ngày càng chiếm ưu thế và các mô hình không cần môi giới trở nên phổ biến, phí giao dịch cổ phiếu gần bằng không (zero-commission) có khả năng trở thành chuẩn mực của ngành trong vòng 3–5 năm tới.
Phí giao dịch-từng là yếu tố khác biệt-được kỳ vọng sẽ mất dần tính liên quan trong bài toán cạnh tranh. Trên thị trường trái phiếu, sự cạnh tranh gia tăng, đặc biệt là ở trái phiếu niêm yết và trái phiếu Chính phủ, đang tiếp tục nén chặt cơ cấu phí. Chỉ có trái phiếu chào bán riêng lẻ, nơi tính thanh khoản còn hạn chế và khả năng tiếp cận của nhà đầu tư vẫn bị ràng buộc, mới có thể mang lại cơ hội doanh thu dựa trên phí bền vững. Nhận thức được những thay đổi về cơ cấu này, VPBankS dự báo rằng các CTCK Việt Nam phải chuyển đổi khỏi các mô hình dựa trên phí hoa hồng và thay vào đó tập trung vào các dịch vụ giá trị gia tăng như cho vay ký quỹ, nền tảng giao dịch kỹ thuật số, nghiên cứu đầu tư chuyên sâu và các giải pháp tài chính đa sản phẩm. Sự tiên triển này phù hợp với các xu hướng môi giới chứng khoán toàn cầu, nơi các công ty đang ngày càng định vị lại bản thân thành các nền tảng đầu tư trọn gói.
Một chiến lược tập trung rõ ràng đã giúp công ty đạt được tăng trưởng khách hàng nhanh chóng và nâng cao năng lực cạnh tranh trên toàn bộ danh mục sản phẩm. Chúng tôi tin rằng (1) việc tích hợp đa chiều, sâu rộng với ngân hàng mẹ và các công ty khác trong hệ sinh thái, (2) mô hình môi giới kết hợp tiện giữa nhân viên môi giới và hỗ trợ trợ lý ảo, (3) các sản phẩm cạnh tranh, được thiết kế riêng cho các phân khúc khách hàng đa dạng, và (4) một chiến dịch tiếp thị thương hiệu hiệu quả tận dụng các thế mạnh hiện có sẽ tiếp cận các phân khúc mục tiêu sẽ giúp VPBankS đạt được mức tăng trưởng ấn tượng và bền vững trong những năm tới.
VPBankS đảm bảo các động lực đa dạng để hỗ trợ mở rộng thị phần
- Tận dụng lợi thế từ Tập đoàn VPBank:
Hưởng lợi từ khả năng tiếp cận hơn 30 triệu khách hàng trong Tập đoàn VPBank, VPBankS có vị thế tốt để thúc đẩy cơ hội bán chéo thông qua cả kênh trực tuyến và ngoại tuyến. Là một công ty tập trung vào công nghệ, VPBankS có thể tăng cường khả năng thấu hiểu khách hàng và tận dụng những thông tin chi tiết này để hỗ trợ đổi mới và cá nhân hóa sản phẩm.
Việc tích hợp ứng dụng giao dịch di động Neo Invest (của VPBankS) với nền tảng ngân hàng số Neo Bank (của VPBank) củng cố sức mạnh tổng hợp của hệ sinh thái. Khách hàng được hưởng lợi từ chuyển tiền tức thì và thanh toán nhanh hơn trong nội bộ tập đoàn, mang lại trải nghiệm giao dịch liền mạch và được tăng tốc. Ngoài ra, giám sát dòng tiền tập trung trên các tài khoản liên kết giúp tăng tính tiện lợi và hỗ trợ quản lý tài chính cá nhân hiệu quả hơn.
- Mô hình môi giới kết hợp: Kết hợp quy mô kỹ thuật số với cá nhân hóa chọn lọc
VPBankS áp dụng mô hình môi giới kết hợp cân bằng giữa hiệu quả kỹ thuật số với việc sử dụng các chuyên viên môi giới truyền thống một cách có mục tiêu, nhằm phục vụ các khách hàng giàu có và có giá trị tài sản ròng cao cần tư vấn cá nhân hóa và bán chéo các sản phẩm tài chính. Khác với Chứng khoán Techcom, vốn hoàn toàn dựa vào nền tảng công nghệ và đã loại bỏ các chuyên viên môi giới truyền thống, VPBankS vẫn duy trì đội ngũ môi giới có giấy phép để phục vụ phân khúc khách hàng cao cấp của công ty. Mô hình dịch vụ-bán hàng kết hợp này tích hợp các công cụ kỹ thuật số, trưởng phòng quan hệ khách hàng của ngân hàng mẹ, các chuyên viên môi giới và các đối tác hệ sinh thái để cung cấp các giải pháp tài chính một cửa trên tất cả các phân khúc khách hàng—từ khách hàng cá nhân đến khách hàng doanh nghiệp.
Cơ cấu dịch vụ & bán hàng đa kênh
Mô hình hoạt động thông qua năm kênh chính:
- Kênh truyền thống: Người giới thiệu, trưởng phòng quan hệ khách hàng của VPB, và các chuyên viên môi giới của VPBankS cung cấp các dịch vụ cá nhân hóa.
- Hệ sinh thái Đối tác: Kết hợp sức mạnh của VPB và VPBankS để phục vụ cả khách hàng cá nhân và khách hàng doanh nghiệp.
- Kênh Đối tác: Hợp tác với các đối tác bên ngoài.
- Kênh Cộng tác viên: Tận dụng các cộng tác viên trong hệ sinh thái.
- Kênh Kỹ thuật số: Nền tảng tự phục vụ cho các sản phẩm cơ bản và quy trình mở tài khoản khách hàng.
Hành trình khách hàng & Khai thác doanh thu
các giai đoạn chính (Nhận biết → Đăng ký → Sử dụng → Bán thêm sản phẩm → Gắn kết) với mức độ chấp nhận sản phẩm và cường độ dịch vụ ngày càng tăng.
- Người dùng giai đoạn đầu được phục vụ qua kênh kỹ thuật số và tự phục vụ.
- Khách hàng gắn kết (sử dụng từ 3 sản phẩm trở lên) được hỗ trợ bởi quản lý quan hệ khách hàng, chuyên viên môi giới và telesales.
VPBankS cung cấp đầy đủ các giải pháp, từ các sản phẩm cơ bản như tiền mặt và sản phẩm cố định đến các dịch vụ nâng cao như giao dịch cổ phiếu, quản lý danh mục đầu tư và tư vấn ủy thác đầu tư.
Vai trò của Kỹ thuật số, Chuyên viên môi giới & Quản lý quan hệ khách hàng
- Kỹ thuật số: Thu hút và chuyển đổi khách hàng thông qua các sản phẩm cơ bản.
- Chuyên viên môi giới: Cùng phát triển các giải pháp tích hợp ngân hàng–chứng khoán–quỹ–bảo hiểm. VPBankS ưu tiên chiến lược trong việc tuyển dụng chuyên viên môi giới, giới hạn số lượng nhân viên ở mức 350 người và đưa ra mức hoa hồng cạnh tranh (85% phí giao dịch) để thu hút và giữ chân nhân tài hàng đầu.
- Quản lý quan hệ khách hàng: Khai thác tệp khách hàng lớn của VPBank (ví dụ: CASA, SME, khách hàng doanh nghiệp) để tạo ra khách hàng tiềm năng và quản lý mối quan hệ.
VPBankS cũng là công ty đầu tiên tại Việt Nam ra mắt nền tảng chuyên dụng cho các cố vấn và đối tác để hỗ trợ dịch vụ khách hàng, tư vấn đầu tư, quản lý danh mục đầu tư và theo dõi hiệu suất, được đặt tên là VPBank NEO Advisor (ứng dụng E-Partner). Ứng dụng này cho phép các cộng tác viên tự chủ giới thiệu khách hàng, mở rộng kênh phân phối thông qua mạng lưới đối tác liên kết được hỗ trợ bởi công nghệ.
- Chiến lược thương hiệu và các chiến dịch marketing có mục tiêu
a. Tận dụng thương hiệu của ngân hàng mẹ – VPBank: Logo của VPBankS mô phỏng chặt chẽ logo của VPBank, phản ánh một động thái chiến lược nhằm tận dụng giá trị thương hiệu và uy tín vững chắc của ngân hàng mẹ.
b. Tham gia sự kiện & Truyền thông
- Xuất hiện trên các chương trình tài chính lớn: Khớp Lệnh (một chương trình truyền hình chuyên biệt do Đài Truyền hình Việt Nam (VTV) sản xuất, cung cấp các cập nhật theo thời gian thực hoặc gần thời gian thực về các hoạt động giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam); The Investors (một chuỗi chương trình tọa đàm tập trung vào nhà đầu tư do VPBankS tài trợ, ra mắt vào tháng 9/2024, có sự tham gia của các diễn giả khách mời từ các công ty hàng đầu như Dragon Capital, VinaCapital, REE, Masan Group, Kido, VNDirect và Passion Investment).

- Livestream định kỳ trên các nền tảng mạng xã hội:

Các dòng sản phẩm cạnh tranh
1. Cho vay ký quỹ

Mở rộng mạnh mẽ mảng cho vay ký quỹ nhờ chi phí vốn cạnh tranh và nền tảng vốn vững chắc. Chỉ sau 3 năm đi vào hoạt động, VPBankS đã tăng trưởng ấn tượng dư nợ cho vay ký quỹ lên 17,8 nghìn tỷ đồng (xếp vị trí thứ tư) tính đến quý 2/2025, trong đó phần lớn đến từ phân khúc khách hàng cá nhân. Đến cuối quý 3/2025, dư nợ cho vay ký quỹ của VPBankS đã tăng lên khoảng 27-28 nghìn tỷ đồng (xếp vị trí thứ ba). Bên cạnh các điều kiện vĩ mô được cải thiện trong 2 năm qua, chúng tôi cho rằng sự tăng trưởng này là nhờ vào (1) công ty đã thu hút khách hàng thành công, (2) nền tảng vốn vững mạnh của VPBankS tạo ra dư địa cho vay ký quỹ lớn, và quan trọng nhất là (3) mức lãi suất cho vay ký quỹ cạnh tranh được điều chỉnh phù hợp với nhiều phân khúc khách hàng nhờ lợi thế chi phí vốn thấp.


2. Stock Guru & Danh mục sản phẩm đa dạng được tùy chỉnh cho các phân khúc khách hàng cá nhân khác nhau
Trợ lý AI thông minh của VPBankS, được gọi là Stock Guru, là một bước đi chiến lược của công ty nhằm nâng cấp nền tảng giao dịch kỹ thuật số bằng công nghệ AI thông minh tích hợp, bao gồm:
- Phân tích cổ phiếu toàn diện, sử dụng hơn 300 chỉ báo kỹ thuật.
- Giao diện AI tác tử (Agentic AI), cho phép tương tác bằng ngôn ngữ tự nhiên để truy cập trực quan.
- Phân tích rủi ro theo thời gian thực và mô hình hóa kịch bản, hỗ trợ việc ra quyết định sáng suốt, dựa trên dữ liệu.

Với hơn 5.600 người dùng đăng ký và 22.300 yêu cầu từ khách hàng chỉ sau 1,5 tháng ra mắt, mô hình này đã cho thấy những bước đi ban đầu tích cực. Ngoài ra, cơ cấu định giá theo bậc – từ quyền truy cập miễn phí đến thông tin chuyên sâu cấp độ chuyên gia ở mức khoảng 1 triệu đồng/tháng – cung cấp một cấu trúc khai thác doanh thu rõ ràng, báo hiệu một nguồn thu nhập tiềm năng bổ sung trong trung và dài hạn.
Ngoài việc phát triển một sản phẩm dựa trên AI mang tính cạnh tranh, VPBankS đã thiết kế một bộ giải pháp được tùy chỉnh để phục vụ các phân khúc nhà đầu tư riêng biệt—dựa trên quy mô AUM, mức độ chấp nhận rủi ro và kinh nghiệm đầu tư. Chiến lược phân khúc này không chỉ tối ưu hóa các dòng doanh thu mà còn củng cố sự giữ chân khách hàng thông qua các giải pháp cá nhân hóa.

Đóng góp từ môi giới NĐT tổ chức dự kiến tăng trưởng từ mức nền thấp

Tăng trưởng giai đoạn đầu với sự hậu thuẫn chiến lược
VPBankS đang trong giai đoạn đầu phát triển mảng môi giới tổ chức, tận dụng sự hậu thuẫn mạnh mẽ từ VPBank, SMBC và các đối tác quốc tế. Những mối quan hệ đối tác này cung cấp uy tín thương hiệu, khả năng tiếp cận luồng giao dịch xuyên biên giới và hỗ trợ cho các nghiệp vụ ECM/DCM độc quyền.
Việc thị trường Việt Nam có khả năng được FTSE (trong ngắn hạn) và MSCI (trong trung hạn) nâng hạng đang thu hút sự tham gia lớn hơn của nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt trong các thương vụ do ECM dẫn dắt. VPBankS đang định vị vị thế để tận dụng xu hướng này với năng lực thực hiện và phân phối tổ chức được tăng cường.
Các yếu tố hỗ trợ chính bao gồm:
- Một thỏa thuận hỗ trợ tiềm năng với một CTCK có trụ sở tại Singapore (có văn phòng ở New York (NYC), London, Jakarta và Kuala Lumpur) để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện giao dịch xuyên biên giới.
- Tiếp tục đầu tư vào đội ngũ phân tích nghiên cứu, bao gồm các mảng cổ phiếu, ngành, chiến lược và AI/tư vấn, nhằm hỗ trợ sự gắn kết của khách hàng tổ chức và khởi tạo giao dịch.
- Nền tảng vốn vững mạnh và liên tục nâng cấp cơ sở hạ tầng giao dịch để xử lý các luồng vốn lớn và mang lại lợi thế thị lệnh tốt nhất.
- Mạng lưới lãnh đạo mạnh mẽ, với Tổng Giám đốc từng làm việc tại quỹ lớn nhất Việt Nam (VEIL), hỗ trợ khả năng tiếp cận và lòng tin của khách hàng tổ chức.
Chúng tôi tin rằng những nền tảng này sẽ hỗ trợ VPBankS trong việc thúc đẩy sự đóng góp ngày càng tăng từ mảng khách hàng tổ chức, phát triển từ mức nền thấp với tiềm năng dài hạn mạnh mẽ.
Mảng Ngân hàng đầu tư (IB) & Tư vấn

Thị trường vốn Việt Nam hiện vẫn ở giai đoạn kém phát triển và phụ thuộc lớn vào nguồn tín dụng ngân hàng, từ đó mở ra cơ hội mở rộng đáng kể. Các động lực tăng trưởng kinh tế mới, đặc biệt là các dự án hạ tầng, đang thúc đẩy quá trình đô thị hóa tại những khu vực lân cận. Bên cạnh nhu cầu vốn cho hạ tầng, chúng tôi cũng kỳ vọng nhu cầu đối với BĐS và nhà ở giá thấp, phù hợp với các quy hoạch đô thị được điều chỉnh. Chu kỳ phát triển này được đánh giá sẽ trở thành động lực quan trọng cho sự tăng trưởng của thị trường vốn.
Các cải cách pháp lý linh hoạt đóng vai trò then chốt trong việc dẫn vốn vào khu vực tư nhân. Nghị quyết 68 khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, trong khi việc thành lập Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC) được kỳ vọng sẽ củng cố hệ sinh thái tài chính của Việt Nam. Một số tập đoàn tư nhân lớn như VinGroup (dự án đường sắt cao tốc Hà Nội-Quảng Ninh, tuyến metro TP.HCM–Cần Giờ, khu đô thị cảng Cần Giờ, nhà máy điện gió ngoài khơi), Trung Nam Group (cầu Cần Giờ), Becamex (đường Mỹ Phước–Tân Vạn) và DonaCoop–VinaCapital (mở rộng tuyến metro TP.HCM) đang tích cực đề xuất và triển khai đầu tư vào các dự án hạ tầng chiến lược.
Sự trở lại của mô hình Xây dựng – Chuyển giao (BT) theo Luật số 57/2024/QH15, với cơ chế thanh toán minh bạch – cho phép doanh nghiệp được thanh toán bằng quỹ đất hoặc ngân sách Nhà nước – giúp gia tăng tính linh hoạt tài chính, giảm sự phụ thuộc vào giải ngân ngân sách truyền thống, đồng thời thúc đẩy nhu cầu vốn mạnh mẽ hơn.
Ở mảng ECM, việc Việt Nam được kỳ vọng nâng hạng thị trường lên các chỉ số của FTSE và MSCI sẽ nâng cao khả năng tiếp cận nguồn vốn từ các nhà đầu tư quốc tế. Các sáng kiến của chính phủ nhằm đáp ứng chuẩn mực toàn cầu càng củng cố xu hướng này, qua đó mở rộng cơ hội đầu tư.
Ngoài ra, môi trường chính sách tiền tệ nới lỏng, kết hợp với kỳ vọng Fed cắt giảm dần lãi suất trong trung hạn, sẽ làm giảm áp lực tỷ giá và nâng cao sức hấp dẫn của Việt Nam như một điểm đến đầu tư. Tất cả các yếu tố này hợp lực tạo nên triển vọng tăng trưởng vững chắc cho thị trường vốn Việt Nam, qua đó mở ra dư địa phát triển mạnh mẽ cho mảng ngân hàng đầu tư.


Hoạt động tự doanh
Điều chỉnh chiến lược phân bổ danh mục theo khung đầu tư mới
Khối đầu tư tự doanh của VPBankS hiện do ông Điền – chuyên gia kỳ cựu với 25 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực thị trường vốn và quản lý danh mục – trực tiếp lãnh đạo. Bề dày kinh nghiệm và chuyên môn của ông được kỳ vọng sẽ nâng cao đáng kể hiệu quả và định hướng chiến lược cho hoạt động đầu tư tự doanh của công ty.
Trước đây, mảng đầu tư tự doanh của VPBankS chủ yếu tập trung vào việc tham gia các đợt hành nợ sơ cấp với mức lợi suất hấp dẫn, kết hợp với các hoạt động ngân quỹ như kinh doanh chênh lệch lãi suất – vay ngắn hạn chi phí thấp và tái đầu tư vào các chứng chỉ tiền gửi dài hạn có lợi suất cao hơn. Tuy nhiên, kể từ khi ông Điền đảm nhận vai trò lãnh đạo, danh mục đã có bước chuyển biến đáng kể theo hướng đa dạng hóa hơn. Đáng chú ý là tỷ trọng phân bổ vào mảng cổ phiếu tăng rõ rệt, phản ánh một cách tiếp cận đầu tư rộng mở và năng động hơn. Công ty định hướng tìm kiếm các cơ hội có lợi suất cao gắn với giao dịch, bao gồm các thương vụ M&A và hiến lược đầu tư cổ phiếu phát hành riêng lẻ trong công ty đại chúng (PIPE), vốn ít nhạy cảm với biến động ngắn hạn của thị trường, qua đó mang lại hồ sơ lợi nhuận ổn định hơn. Ngoài ra, hoạt động đầu tư vào cổ phiếu niêm yết sẽ dựa trên phương pháp tiếp cận theo nền tảng cơ bản, tập trung vào việc tạo dựng giá trị dài hạn.
Mục tiêu phân bổ tài sản (triển vọng 3–5 năm):
Trong trung hạn, VPBankS dự kiến duy trì cơ cấu phân bổ cân bằng giữa các loại tài sản, với mục tiêu chuyển biến như sau:
- Cổ phiếu: 15% – 20%
- Trái phiếu: 45%
- Chứng chỉ tiền gửi: 35% – 40%

Danh mục đầu tư cũng đã ghi nhận sự thay đổi đáng kể trong phân bổ theo ngành, phản ánh định hướng chiến lược nhằm đa dạng hóa và giảm rủi ro tập trung. Tỷ trọng phân bổ vào bất động sản giảm mạnh từ 64,1% xuống 49,5%, cho thấy cách tiếp cận cân bằng hơn. Song song đó, tỷ trọng vào ngành sản xuất tăng mạnh từ mức gần như không đáng kể lên 25,4%. Những điều chỉnh này cho thấy sự dịch chuyển có chủ đích sang các lĩnh vực có triển vọng tăng trưởng rõ rệt hơn và ít chịu rủi ro chu kỳ hơn.

Tiềm năng lớn từ hoạt động đầu tư tự doanh, được thúc đẩy bởi hoạt động quản lý danh mục chủ động và mở rộng mảng IB. Trong 6T/2025, VPBankS đã ghi nhận tổng giá trị giao dịch trái phiếu đạt khoảng 76 nghìn tỷ đồng (+61% YoY). Bên cạnh đó, hoạt động giao dịch cổ phiếu cũng tăng mạnh, nhờ triển khai các khoản đầu tư ngắn hạn vào cổ phiếu niêm yết, qua đó đóng góp đáng kể vào mức tăng mạnh của Tài sản tài chính ghi nhận thông qua lãi/lỗ (FVPTL) trong cùng kỳ. Công ty kỳ vọng phân khúc trái phiếu doanh nghiệp sẽ tiếp tục là nguồn đóng góp lớn nhất cho lợi nhuận FVPTL. Đồng thời, chúng tôi nhận thấy rằng VPBankS đang theo đuổi chiến lược đa dạng hóa danh mục rõ nét hơn, với mục tiêu phân bổ vốn vào nhiều loại tài sản và lĩnh vực ngành nghề rộng hơn. Sự dịch chuyển chiến lược này được kỳ vọng sẽ hỗ trợ tăng trưởng lợi nhuận bền vững và ổn định hơn cho mảng đầu tư tự doanh trong các giai đoạn tới.
Công ty cũng tận dụng môi trường thanh khoản thị trường được cải thiện để triển khai các chiến lược đầu tư chủ động hơn, qua đó dự kiến sẽ thúc đẩy tăng trưởng doanh thu. Trong tương lai, VPBankS dự báo tỷ suất sinh lời trung bình trên tài sản FVPTL trong 3–5 năm tới sẽ duy trì ở mức hấp dẫn, với:
- Đầu tư trái phiếu: kỳ vọng lợi suất 13,3% – 13,8%
- Đầu tư cổ phiếu: kỳ vọng lợi suất 16% – 19%
Trong trung và dài hạn, danh mục tự doanh được kỳ vọng sẽ đóng vai trò ngày càng quan trọng bên cạnh hoạt động IB mở rộng của VPBankS, vì mảng này sẽ mở ra nhiều cơ hội cho công ty tham gia các thương vụ độc quyền (như M&A và PIPE). Các khoản đầu tư chiến lược thông qua M&A và PIPE được dự báo sẽ đóng góp 10% – 20% vào LNTT trong 5 năm tới.


VPBankS dự kiến mua 9,71% cổ phần OPES từ ngân hàng mẹ: VPBank đã thông qua việc chuyển nhượng 18,45 triệu cổ phiếu OPES – công ty bảo hiểm số phi nhân thọ – (tương đương 9,71% vốn điều lệ) sang cho VPBankS. Sau giao dịch, tỷ lệ sở hữu trực tiếp của ngân hàng mẹ tại OPES sẽ giảm từ 99,42% xuống 89,71%, với giá chuyển nhượng do Chủ tịch VPBank quyết định. Giao dịch dự kiến sẽ được thực hiện trong giai đoạn từ Quý 3/2025 – Quý 1/2026.
Động thái này phù hợp với chiến lược của VPBankS nhằm đa dạng hóa danh mục đầu tư và gia tăng sự hiện diện tại các lĩnh vực có tốc độ tăng trưởng cao. Hiện tại, OPES có vốn điều lệ là 1,9 nghìn tỷ đồng (khoảng 2,4% vốn điều lệ của VPBank). Trong 6T 2025, công ty ghi nhận 2,2 nghìn tỷ đồng doanh thu phí bảo hiểm gốc (+113% YoY), vượt 15% kế hoạch và hoàn thành 109% mục tiêu LNTT. OPES cũng đã phát hành 139 triệu hợp đồng bảo hiểm (+40% YoY), vươn lên nhóm Top 7 công ty bảo hiểm về thị phần tính đến giữa năm 2025.
Với KQKD khả quan của OPES cùng tiềm năng dài hạn của ngành bảo hiểm, thương vụ này được kỳ vọng sẽ hỗ trợ tham vọng tăng trưởng lợi nhuận của VPBankS trong giai đoạn 2026–2030.
Nguồn vốn vững mạnh với khả năng huy động vốn cạnh tranh

VPBankS đã thành công trong việc đa dạng hóa các nguồn vốn chi phí thấp. Tính đến Quý 2/2025, nợ phải trả của công ty chủ yếu đến từ các khoản vay ngắn hạn từ ngân hàng thương mại và khách hàng cá nhân – trong đó nhóm khách hàng cá nhân được huy động thông qua các sản phẩm thị trường tiền tệ phối hợp cùng ngân hàng mẹ. Ngoài ra, trong 6T 2025, VPBankS đã huy động được 150 triệu USD khoản vay hợp vốn quốc tế, và dự kiến huy động thêm 250 triệu USD trong 6T 2025 còn lại từ liên minh do SMBC dẫn dắt. Đáng chú ý, công ty hiện vẫn chưa khai thác kênh nợ dài hạn hay trái phiếu doanh nghiệp ngắn hạn, qua đó cho thấy dư địa lớn để tiếp cận thêm nguồn vốn trong tương lai. Chúng tôi cho rằng vị thế huy động vốn vững chắc này sẽ tạo nên tảng quan trọng để hỗ trợ các mục tiêu tăng trưởng tham vọng của VPBankS.
Theo kế hoạch, trong ngắn hạn đến trung hạn (1-3 năm), các khoản vay từ sản phẩm thị trường tiền tệ dự kiến sẽ duy trì ổn định ở mức khoảng 30–35% tổng nguồn vốn. Sau giai đoạn này, tỷ trọng dự kiến sẽ giảm dần xuống mức 20–25%, phù hợp với chiến lược đa dạng hóa nhằm nâng cao khả năng chống chịu và tính linh hoạt tài chính.

Chuẩn bị IPO nhằm huy động vốn cho các sáng kiến tăng trưởng giai đoạn 2026-2030
Vào đầu tháng 9/2025, trong bối cảnh thị trường thuận lợi, VPBankS đã công bố kế hoạch IPO với các thông tin như sau:

VPBankS đặt ra mục tiêu tăng trưởng mạnh mẽ cho giai đoạn 2026-2030, bao gồm mục tiêu LNTT năm 2030 đạt 17,5 nghìn tỷ đồng và ROE đạt 19,0%, tương ứng với mức CAGR lợi nhuận giai đoạn 2025-2030 là 32%. Để hiện thực hóa mục tiêu này, công ty đã xây dựng một loạt các sáng kiến chiến lược:
- Phát triển mảng DCM tích hợp blockchain, nhằm xây dựng hạ tầng thị trường trái phiếu linh hoạt, minh bạch.
- Xây dựng chuỗi giá trị ECM toàn diện, phục vụ các khách hàng tổ chức từ nghiên cứu chuyên sâu đến phát hành mới và giao dịch lớn, đảm bảo tính linh hoạt và hiệu quả trong mọi môi trường cạnh tranh.
- Ứng dụng AI trong hoạt động cho vay ký quỹ tự động, kiểm soát rủi ro đầu-cuối và nâng cao hiệu quả vận hành.
- Tích hợp WealthTech với ngân hàng mẹ nhằm cung cấp dịch vụ quản lý danh mục cá nhân cho hơn 30 triệu khách hàng.
- Huy động vốn và kinh doanh chênh lệch giá, tận dụng mối quan hệ với VPBank/SMBC nhằm tiếp cận nguồn vốn với chi phí thấp.
- Mở rộng mảng quản lý quỹ thông qua M&A hoặc thành lập các liên doanh mới nhằm đa dạng hóa nguồn thu.
- Phát triển blockchain và tài sản số, bao gồm các nền tảng giao dịch tiền mã hóa, cho vay ngang hàng (P2P) và giao dịch hàng hóa.
- Thiết lập quan hệ đối tác công nghệ và tài chính toàn cầu thúc đẩy đổi mới sáng tạo và mở rộng kênh phân phối.
- Triển khai các chiến lược tự doanh ứng dụng AI, tập trung vào M&A, PIPE và giao dịch định lượng nhằm tối ưu hiệu quả.
Tiềm năng mở rộng sang các mảng kinh doanh mới
VPBankS đã và đang mở rộng – hoặc có thể sẽ mở rộng – sang một số mảng kinh doanh mới, bao gồm quản lý tài sản và quản lý gia sản, cũng như các lĩnh vực thí điểm được Nhà nước khuyến khích như sàn giao dịch tài sản số, sàn giao dịch hàng hóa và sàn giao dịch vàng, nhằm duy trì đà tăng trưởng ở mức cao.
Quản lý tài sản/Quản lý gia sản
VPBankS hiện có lợi thế để sớm được cấp phép cho dịch vụ quản lý tài sản và, cùng với VPBank, dự kiến triển khai M&A hoặc thành lập công ty quản lý quỹ nhằm đa dạng hóa nguồn thu và tận dụng mạng lưới rộng lớn để phân phối và quản lý tài sản.
Lộ trình phát triển mảng Quản lý gia sản:
Giai đoạn 1 (2024-2025): Xây dựng nền tảng dữ liệu khách hàng tập trung, tích hợp dịch vụ trên toàn hệ sinh thái ngân hàng và công ty con nhằm thúc đẩy hoạt động bán chéo (cross-selling); đồng thời triển khai các điểm giao dịch offline trọng điểm và mô hình quản lý tài sản toàn diện với sự hỗ trợ từ các đối tác tư vấn chiến lược.
Giai đoạn 2 (từ Q3/2025): Ra mắt nền tảng WealthTech toàn diện, cung cấp dịch vụ quản lý tài sản cá nhân hóa và liền mạch cho hơn 30 triệu khách hàng, bao phủ nhiều sản phẩm như cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ và e-portfolio, với trọng tâm tập trung vào hoạt động bảo mật dữ liệu và tích hợp công nghệ.
Tài sản số nổi lên như một cơ hội kinh doanh tiềm năng
Tài sản số được xem là một cơ hội kinh doanh tiềm năng đáng kể cho ngành chứng khoán trong trung-dài hạn. Trong các tháng gần đây, Chính phủ đã ban hành Luật Công nghiệp Công nghệ số và Nghị quyết 05/2025/NQ-CP, đặt nền móng pháp lý cho việc hình thành và vận hành thị trường tài sản số tại Việt Nam. Một số CTCK như TCBS, SSI, và VIX đã có sự chuẩn bị, trong khi các công ty được hậu thuẫn bởi các ngân hàng lớn như MBS, VPBankS và HDBS cũng cho thấy tiềm năng thành lập nhằm tận dụng điều kiện để triển khai dịch vụ giao dịch tài sản số. Tuy nhiên, thị trường chưa thể vận hành chính thức cho đến khi:
- Bộ Tài chính ban hành Thông tư hướng dẫn – cơ sở để cấp phép thành lập sàn giao dịch tài sản số.
- UBCKNN ban hành quy định giao dịch – khung pháp lý cho việc xây dựng danh mục sản phẩm cụ thể.
- Bộ Công an phê duyệt hệ thống CNTT của các đơn vị cung cấp dịch vụ, yêu cầu đáp ứng tiêu chuẩn an ninh cấp độ 4.
Chúng tôi cho rằng thị trường tài sản số tại Việt Nam vẫn cần thêm nhiều thời gian để hoàn thiện khung pháp lý và hạ tầng trước khi có thể vận hành chính thức. Tuy vậy, trong ngắn hạn, các cơ quan quản lý sẽ triển khai cơ chế sandbox (trong vòng 5 năm) với sự tham gia của một số tổ chức tài chính.
VPBankS tham gia thành lập công ty sàn giao dịch tài sản số
- Vào ngày 19/09/2025, CTCP Sàn giao dịch Tài sản số Việt Nam Thịnh Vượng (CAEX) chính thức được thành lập với vốn điều lệ ban đầu là 25 tỷ đồng. Công ty có trụ sở tại quận Ba Đình, Hà Nội và hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ liên quan đến tài sản số.
- Cơ cấu cổ đông:
- VPBankS: 11%
- Công ty Cổ phần Lynkid: 50% (Thành lập năm 2020, chuyên về nền tảng khách hàng thân thiết và hệ thống điểm thưởng; vận hành hệ sinh thái khách hàng thân thiết đa thương hiệu và là đối tác khách hàng thân thiết độc quyền của VPBank. Vốn điều lệ hiện tại: 2 tỷ đồng)
- Công ty TNHH Đầu tư Future Land: 39% (Doanh nghiệp tập trung vào bất động sản, thành lập tháng 12/2023. Vốn điều lệ đạt 120 tỷ đồng vào tháng 03/2024)
Chúng tôi nhận thấy thị trường tài sản số tại Việt Nam đang nóng lên rõ rệt, với sự tham gia của các ngân hàng và CTCK lớn – đánh dấu một bước đi quan trọng trong việc thí điểm tài sản số và khẳng định tiềm năng tăng trưởng dài hạn mạnh mẽ trong lĩnh vực này: MBB đã hợp tác với Dunamu (Upbit) để ra mắt sàn giao dịch tiền mã hóa; VIXEX chính thức hoạt động với vốn điều lệ 1 nghìn tỷ đồng; TCEX (hậu thuẫn bởi Techcombank) nhanh chóng mở rộng vốn từ 3 tỷ đồng lên 101 tỷ đồng; SSI Digital hợp tác cùng Tether, U2U Network và AWS nhằm xây dựng hạ tầng blockchain và tài chính số, thị trường cũng đang kỳ vọng sự tham gia tiềm năng của HDBS trong thời gian tới. Trong bối cảnh đó, chúng tôi cho rằng VPBankS hiện đang sở hữu lợi thế cạnh tranh về quy mô, nguồn vốn và năng lực công nghệ, từ đó có vị thế trở thành một trong những đơn vị tiên phong trên thị trường.

Theo chiến lược giai đoạn 2026–2030, công ty dự kiến hợp tác chặt chẽ với VPBank và các đối tác chiến lược để phát triển nền tảng blockchain, tham gia vào các sàn giao dịch tài sản số, đồng thời mở rộng sang các khoản đầu tư chiến lược trong lĩnh vực cho vay P2P, sàn giao dịch hàng hóa và thị trường hợp đồng tương lai vàng. Các sáng kiến này hướng đến việc đón đầu xu thế số hóa tài chính, đa dạng hóa danh mục sản phẩm và nâng cao khả năng thích ứng với những biến động của thị trường toàn cầu.
Dự báo KQKD
Dựa trên các mục tiêu hiện tại, KQKD gần đây và động lực tăng trưởng mạnh, chúng tôi cho rằng lợi nhuận của công ty đang trên đúng đà để đạt được LNTT dự phóng năm 2025 ở mức 4.552 tỷ đồng (+273% YoY), so với kế hoạch ĐHĐCĐ là 4.450 tỷ đồng (+265% YoY).

6T 2025: Mở rộng cho vay ký quỹ mạnh; lợi nhuận đầu tư lớn

Triển vọng giai đoạn 2025-2026: Tăng trưởng của nhiều mảng tăng tốc, thúc đẩy lợi nhuận vững chắc


Chúng tôi dự phóng CAGR doanh thu và lợi nhuận lần lượt 31,8% và 30,5% trong giai đoạn 2025-2030.
Mảng môi giới
Từ năm 2022 đến năm 2025, VPBankS đã tích cực tăng cường đội ngũ môi giới nhằm giành thị phần trong bối cảnh cạnh tranh miễn phí giao dịch, đồng thời mở rộng tệp khách hàng. Trong thời gian tới, chúng tôi kỳ vọng biên lợi nhuận mảng môi giới sẽ cải thiện nhờ giá trị tài sản ròng của khách hàng gia tăng và tỷ lệ quay vòng giao dịch cao hơn, dù áp lực cạnh tranh về chi phí vẫn sẽ duy trì. Bên cạnh đó, các khoản đầu tư chiến lược vào trợ lý tư vấn đầu tư ảo (Stock Guru) và ứng dụng ngân hàng di động cho đối tác E-partners được kỳ vọng sẽ nâng cao trải nghiệm khách hàng và mang lại kết quả tốt hơn. Do đó, chúng tôi dự phóng doanh thu môi giới sẽ đóng góp khoảng 18% tổng doanh thu vào năm 2030; tuy nhiên, đóng góp vào lợi nhuận hoạt động ròng ước tính sẽ thấp hơn nhiều do chiến lược của VPBankS là duy trì mức hoa hồng cao cho môi giới.
Cho vay ký quỹ sẽ tiếp tục là động lực tăng trưởng chính trong mảng môi giới, đóng góp ổn định khoảng 40%-42% tổng doanh thu trong giai đoạn 2026-2030. Đà tăng trưởng này sẽ được hỗ trợ bởi lợi thế chi phí vốn của VPBankS nhờ sự hậu thuẫn mạnh từ ngân hàng mẹ và SMBC, cùng với tiềm năng mở rộng tệp khách hàng.
Ngân hàng đầu tư
Chúng tôi đánh giá năm 2025 sẽ là một năm có mức cơ sở cao đối với doanh thu ngân hàng đầu tư, được hỗ trợ bởi doanh thu mảng thương vụ lớn trong cả ECM và DCM. Từ năm 2026, chúng tôi dự báo mức đóng góp doanh thu ngân hàng đầu tư sẽ trở lại mức bình thường, chủ yếu do triển vọng thận trọng hơn đối với các giao dịch ECM. Dù vậy, mức tăng trưởng liên tục của thị trường trái phiếu doanh nghiệp cùng với vị thế cạnh tranh vững chắc của VPBankS được kỳ vọng sẽ duy trì doanh thu ngân hàng đầu tư ở mức tích cực trong dài hạn.
Đầu tư tự doanh
Doanh thu đầu tư tự doanh tại VPBankS dự kiến sẽ tăng trưởng đáng kể, được hỗ trợ bởi chiến lược quản lý danh mục chủ động hơn trong bối cảnh thanh khoản thị trường cải thiện, đồng thời đa dạng hóa về ngành và loại tài sản.
Đầu tư & Phân phối trái phiếu: Doanh thu từ các hoạt động liên quan đến trái phiếu được kỳ vọng sẽ hưởng lợi nhờ việc VPBankS tham gia giao dịch vào chuỗi giá trị của DCM – bao gồm tư vấn, bảo lãnh, phân phối và các dịch vụ liên quan như quản lý tài sản đảm bảo và đại diện cho nhà đầu tư. Các hoạt động này giúp công ty nhận được cả phí tư vấn/dịch vụ lẫn chênh lệch lợi suất thông qua bảo lãnh phát hành trái phiếu và bán lại với giá cao hơn. VPBankS đặt mục tiêu mở rộng thị phần trong mảng phát hành trái phiếu doanh nghiệp ngoài ngân hàng từ 10,2% trong năm 2025 lên 18,5% vào năm 2030, hướng tới vị thế một trong những đơn vị dẫn đầu DCM. Công ty định hướng lợi suất kỳ vọng từ trái phiếu doanh nghiệp trong giai đoạn 2026–2030 đạt 13,3%–13,8%.
Đầu tư Cổ phiếu quỹ: Danh mục đầu tư cổ phiếu quỹ dự kiến sẽ hưởng lợi từ cơ sở vốn ngày càng mở rộng và lợi thế chi phí vốn thấp, cho phép VPBankS tiếp tục triển khai chiến lược kinh doanh chênh lệch lợi suất – vay vốn ngắn hạn với chi phí thấp và tái đầu tư vào các công cụ dài hạn có lợi suất cao hơn như chứng chỉ tiền gửi (CDs).
ECM: Khi VPBankS đẩy mạnh các hoạt động ngân hàng đầu tư và ECM, công ty cũng sẽ tận dụng cơ hội tham gia trực tiếp vào các thương vụ M&A và PIPE, dựa trên tệp khách hàng doanh nghiệp hiện hữu cũng như quan hệ đối tác chiến lược với SMBC. Các khoản đầu tư cổ phiếu này được kỳ vọng sẽ mang lại lợi suất lớn, với mức dự phóng đạt 16,6%–18,7% trong giai đoạn 2026–2030, đóng vai trò như động lực tăng trưởng bổ sung cho mảng tự doanh.
CIR
Các khoản đầu tư liên tục vào công nghệ và nhân sự kể từ năm 2024 trở đi dự kiến sẽ được bù đắp nhờ đa dạng hóa nguồn doanh thu và cải thiện hiệu quả hoạt động. Công ty đặt mục tiêu duy trì CIR tối ưu trong khoảng 23%–25% trong 5 năm tới.
Định giá
Được hậu thuẫn bởi tăng trưởng lợi nhuận mạnh, cổ phiếu các CTCK đã mang lại mức lợi suất kép ấn tượng cho nhà đầu tư trong dài hạn. Một danh mục giả định phân bổ đều gồm 8 CTCK niêm yết lớn nhất theo vốn hóa thị trường (SSI, VIX, VND, VCI, SHS, MBS, HCM và FTS), nếu được đầu tư từ đầu năm 2018, thì đến ngày 29/09/2025 đã tăng hơn 7 lần, tương ứng với IRR xấp xỉ đạt 29%.


8 CTCK trên hiện đang giao dịch với P/B trung bình ở mức 2,5x, cao hơn khoảng 1,5 độ lệch chuẩn so với mức trung bình lịch sử từ năm 2018 là 1,7x, nhưng vẫn thấp hơn mức đỉnh là 3,6x, được ghi nhận trong năm 2021. Chúng tôi cho rằng định giá cao hơn của nhóm cổ phiếu chứng khoán trong năm nay phản ánh quan điểm lạc quan của nhà đầu tư về triển vọng lợi nhuận tích cực của ngành, được thúc đẩy bởi nhiều yếu tố thuận lợi như đã đề cập ở các phần trước. Dù toàn bộ các CTCK đều được hưởng lợi từ các yếu tố này, chúng tôi tin rằng sẽ có một số xu hướng ngành quan trọng quyết định đâu là các công ty dẫn đầu trong chu kỳ tăng trưởng hiện tại, như đã phân tích phía trên.
Dựa trên so sánh giữa các CTCK lớn theo các chỉ tiêu năm 2025, VPBankS và TCBS nổi bật về quy mô và khả năng sinh lời. Hai công ty này được kỳ vọng sẽ ghi nhận lợi nhuận ròng cao nhất ngành trong năm 2025, đạt lần lượt 135 triệu USD và 175 triệu USD, với ROE tương ứng đạt 18,5% và 15,8%. VPBankS và TCBS cũng nằm trong nhóm công ty cho vay ký quỹ lớn nhất thị trường, với dư nợ quý 2/2025 lần lượt đạt 675 triệu USD và 1,3 tỷ USD, xếp hạng #4 và #1 trong ngành.


VPBankS mang lại tiềm năng định giá hấp dẫn, hiện đang giao dịch với mức chiết khấu so với các đối thủ dù có ROE vượt trội và lợi thế cạnh tranh khác biệt. Ngoài triển vọng tăng trưởng mạnh mẽ, lợi thế từ ngân hàng mẹ và khả năng mở rộng quy mô, VPBankS còn hướng đến mở rộng dài hạn mảng quản lý tài sản và các lĩnh vực được Chính phủ hỗ trợ như tài sản số (crypto assets) và hàng hóa (commodities), càng củng cố hồ sơ tăng trưởng cao.
Dựa trên KQKD quý 2/2025 và kế hoạch của công ty, mức giá IPO tương đương P/B năm 2025 trước phát hành là 2,4 lần (sau phát hành là 1,9 lần) và P/E năm 2025 trước phát hành là 14,3 lần, thấp hơn so với mức P/B trung vị ngành dự phóng trong năm 2025 là 2,5x và P/E mục tiêu trong năm 2025 là 22,3x tính đến ngày 29/09.



 
                 
                